Nội dung chính
Đặc điểm ấm tử sa Nghi Hưng và cách chọn ấm trà Tử Sa
Ấm tử sa Nghi Hưng được sản xuất từ nguồn nguyên liệu tử sa rất quý hiếm, đa phần chỉ có ở nghi Hưng Giang Tô. Trong bùn tử sa có chứa thạch anh, các hạt mica và hàm lượng lớn sắt. Màu sắc của nó rất đa dạng, nó có thể biến đổi thành các màu đen, tím, xanh, vàng, nâu đỏ, thiên thanh… Nhưng nó được phân ra làm 4 loại chính là tử nê, lục nê, hồng nê và đoạn nê. Đặc biệt màu sắc của ấm tử sa thành phẩm cũng khác nhau, tùy vào lượng sắt trong bùn nhiều hay ít, và nhiệt độ trong lò khi nung. Vì vậy các loại ấm tử sa có thể có màu sắc từ ngà đến đen rất đa dạng và phong phú, kết hợp với nhiều kiểu dáng độc lạ khác nhau để tạo lên những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp.
Ấm tử sa không chỉ là một trà cụ, nó còn được coi là một tác phẩm nghệ thuật mà những người nghệ nhân tạo ra ấm chính là những người nghệ sĩ thực thụ. Những tác phẩm này được chế tác với nhiều dung tích lớn nhỏ khác nhau theo từng nhu cầu của mỗi người. Có thể là ấm độc ẩm, song ẩm hay quần ẩm…
Đặc điểm của ấm tử sa nghi Hưng
Do đặc tính của đất tử sa với nhiều lỗ thoáng khí rất nhỏ và các khoáng chất có trong đất nên ấm tử sa sẽ không bị nứt dù thay đổi nhiệt độ bất thường khi đổ nước sôi vào. Đồng thời nó cũng giúp giữ nhiệt và lưu giữ hương thơm và vị trà lâu dài. Tùy vào từng loại đất tử sa khác nhau mà chúng lại có tỉ lệ co ngót lớn nhỏ khác nhau. Vì vậy để chế tác được những sản phẩm có độ khít và nắp ấm vừa vặn là điều không hề đơn giản, nó đổi hỏi trình độ và kinh nghiệm của người nghệ nhân.
Loại đất sét tại Nghi Hưng trong thiên nhiên nói chung đều mềm, có màu vàng, nâu đen hay xanh nhạt. Sau khi nó được trải qua quá trình nung, thì đất sét sẽ biến đổi thành các màu sắc khác nhau tùy thuộc vào lượng sắt có trong đất.
Quá trình khai thác đất sét và qua các công đoạn ché biến, sàng lọc để loại bỏ hết những tạp chất lẫn trong đất sét rất mất thời gian, công sức.
Đất sét tại Nghi Hưng được lấy từ lòng đất sâu, sau đó đem đi phơi khô thành từng tảng. Những tảng đất đó được tán thành bột rồi được rây bằng những rây tre để lọc đi tất cả sỏi đá và các tạp chất khác lẫn trong đất sét.
Khi đất sét đã được tán thành bột rồi, nó sẽ được đổ vào những bể nước hình chữ nhật cao khoảng thước rưỡi rồi đổ đầy nước vào đó. Ba ngày sau, dung dịch đất và nước đó lại được gạn qua một bể khác và để nước bốc hơi đi cho keo lại. Như vậy công đoạn nhào đất đã hoàn thành, giờ chì việc cắt đất ra thành từng bánh để sử dụng dần.
Ngày nay, khi đến Cảnh Đức Trấn bạn sẽ thấy rất nhiều xưởng làm đồ gốm với rất nhiều các loại sản phẩm khác nhau từ bồn, chậu đến ngói xanh, đến những bộ ấm trà gốm. Nhưng chỉ có những sản phẩm được làm từ nguồn nguyên liệu đất tử sa là quí hơn cả.
Trên những chiếc ấm tử sa thường được những người nghệ nhân đóng dấu tên mình vào đáy ấm và bên trong thân ấm. Triện thường hình vuông, hình tròn hay bầu dục khắc nổi. Với những chiếc ấm đắt tiền có khi có thêm một cái triện nhỏ bên trong nắp ấm, hoặc một con dấu khác dưới tay cầm. Ngày nay kể cả những chiếc ấm có giá rẻ được bán với giá chỉ vài đồng cũng có con dấu ngệch ngoạc. Chứng tỏ nền công nghiệp gốm sứ đang chuyển hướng mang nhiều màu sắc nghệ thuật hơn.
Không chỉ có những con dấu được triện trên ấm mà còn có những bài thơ, lới chúc, một câu đối được khắc lên thân ấm. Nhưng quá trình khắc chữ lên ấm không hề đơn giản, nó đồi hỏi trình độ, thư pháp của người nghệ nhân mới có thể cho ra được những chiếc ấm tử sa tuyệt đẹp với những bài thơ, câu đối tuyệt đẹp trên thân ấm.
Đối với các loại ấm trà được sản xuất theo kiểu công nghệ thì những chữ viết hay hoa văn trên thân ấm được in bằng một loại mực không phai. Sau đó chúng mới được đem cho vào lò nung. Những chiếc ấm đất thường được nung ở nhiệt độ từ 1100 độ đến 1200 độ C, tuy không nóng bằng đồ sứ nhưng ở nhiệt độ đó, ấm vẫn giữ được tính thấm nước.
Nghề nặn ấm cho đến nay vẫn đòi hỏi một thời gian học nghề lâu theo kiểu sư phụ đệ tử chân truyền. Phải mất rất nhiều năm mới có thể lĩnh hội được hết bí quyết chân truyền. Ngày nay việc các nghệ nhân mới thường hay lấy những kiểu dáng cũ để làm ra những chiếc ấm mới, nhưng cũng có nghệ nhân mới lại tự mình sáng tạo ra các kiểu dáng mới. Những kiểu dáng mới này cũng có nhiều nét độc đáo, đặc trưng không thua kém gì những chiếc ấm do các danh sư xưa ché tác ra, và có thể còn nổi trội hơn.
Tại Bắc Mỹ đã có rất nhiều lần triển lãm ấm Nghi Hưng được diễn ra. Bộ sưu tập của Tiến Sĩ La Quế Tường (K.S. Lo) được trưng bày trong khoảng 1990-92 tại Phoenix Art Museum, Trung Tâm Văn Hóa Hoa Kiều San Francisco, Indianapolis Art Museum, và Ontario Museum.
Ấm Nghi Hưng cũng đã được huy chương vàng trong các kỳ chợ phiên quốc tế chẳng hạn như tại Philadelphia năm 1926 và ở Leipzig và Liege trong thập niên 1930.
Việc lựa chọn một chiếc ấm trà gốm bình thường để sử dụng là điều không hề dễ dàng, nhưng để lựa chọn mua một chiếc ấm tử sa và bảo dưỡng ấm chuẩn nhất lại càng khó, mà những người chơi ấm tử sa rất quan tâm.
Cách chọn mua và bảo dưỡng ấm tử sa đúng cách
Khi chọn mua ấm Tử sa, nhiều người băn khoăn không biết nên dựa vào những tiêu chuẩn nào. Đây là vấn đề mà mọi người chơi ấm tử sa rất quan tâm, các bạn cũng dễ dàng tìm hiểu trên mạng về một số cách kiểm tra khi lựa chọn ấm tử sa để có thể lựa chọn cho mình một chiếc ấm ưng ý nhất. Như kiểm tra xem nắp ấm có khít hay không và gõ nhẹ vào quay hay thân ấm sẽ phát ra những âm thanh như tiếng sắt, tiếng đồng. Kiểm tra xem rót nước có lực hay không… Đây đều là một số cách kiểm tra ấm cơ bản khi lựa chọn mua ấm tử sa, đã được truyền bã rộng rãi.
Nhưng điều quan trọng nhất là việc chọn mua một chiếc ấm trước hết phải bắt đầu từ chính nhu cầu của người mua. Nếu mục đích của bạn tìm chiếc ấm Tử sa để hàng ngày làm bạn với trà, thì nên lựa chọn ấm có kiểu dáng đơn giản, hoa văn trang trí dễ nhìn, không gây khó khăn khi lau rửa, miệng rộng dễ cho trà vào bình và bỏ xác trà khi dùng xong. Cần nhất là một chiếc ấm hình thể cân đối, vững chãi, không dễ bị ngã đổ.
Khi chọn mua ấm Nghi Hưng quý vị nên dựa vào các yếu tố: Nhìn, nghe, và Cảm nhận.
1. Nhìn bằng mắt thì ấm phải có hình dáng thanh thoát, ưa nhìn và cân đối. Các bộ phận như: thân ấm, nắp, miệng, vòi, quai, đáy phải cân đối, liền mạch. Màu sắc đồng đều trong ngoài.
Đối với những chiếc ấm tử sa thì dấu triện của nghệ nhân hay nhà sản xuất nét chữ sắc sảo, đặt cân đối ở trung tâm đáy ấm, theo trục thẳng từ quai sang vòi ấm.
Những chiếc ấm đắt tiền thường có thêm dấu triện phụ dưới nắp và quai cầm thật rõ nét. Vòi ấm có thể dài ngắn khác nhau, nhưng quan trọng là khi rót, nước chảy thông, đều và thẳng dòng, không rơi vãi và ngắt nước tốt. Nắp ấm phải thật khít, bạn có thể kiểm tra bằng cách lấy ngón tay bịt vòi ấm lại và quay ngược ấm xuống, nếu nắp ấm không rơi chứng tỏ là nắp rất khít.
2. Nghe bằng tai: Đặt ấm lên lòng bàn tay, tay kia cầm nắp ấm khẽ gõ vào quai, tiếng kêu đanh; chắc như kim loại chạm vào nhau.
3. Cảm nhận bằng tay: Dùng tay sờ lên thân ấm thấy trơn láng, mịn màng, không tì vết. Nắp và miệng ấm khít khao, vì ấm Tử sa được nung trong lò liên tục 23 tiếng đồng hồ ở nhiệt độ từ 1.190 – 1.270 độ C (trung bình 1.200 độ C), đòi hỏi tay nghề nghệ nhân phải cao, chất đất phải thật tốt và mịn mới không bị co giãn khi nung.
Do các đặc tính của đất tử sa mà trong quá trình sử dụng ấm và dưỡng ấm càng lâu thì ấm tử sa càng sáng bóng, màu sắc ôn nhuận, tươi mới. Đây mới chính là đặc trưng ưu việt của ấm tử sa.
Chắc chắn là những chiếc ấm mới mua về sẽ không thể có mùi thơm được. Nó phải trải qua thời gian dài ngâm dưỡng ấm thì khi đó bạn mới có thể cảm nhận được mùi thơm và hương vị của trà trên ấm. Sau một thời gian dài ngâm dưỡng ấm tử sa thì cáu trà sẽ xuất hiện trên ấm, khi đó chỉ cần đổ nước sôi vào mà không cần cho trà vào thì bạn cũng đã thấy được mùi vị của trà rồi.
Không phải chiếc ấm tử sa lâu năm nào cũng giá trị vì nó chưa chắc đã đạt chuẩn về tính nghệ thuật, kỹ thuật tay nghề, chất liệu… Ngày nay, có những chiếc ấm mới làm ra nhưng giá trị cao gấp nhiều lần những chiếc ấm lâu năm.
Giá ấm tử sa trên thị trường
Ngày nay, bạn rất dễ dàng để sở hữu một chiếc ấm tử sa tại bất kỳ đâu trên thế giới chứ không nhất thiết là phải tới Nghi Hưng, Trung Quốc mới mua được. Tuy nhiên, giá cả tại mỗi nơi, mỗi cửa hàng lại hoàn toàn khác nhau, có nhiều nơi bán ấm tử sa với chất lượng như nhau nhưng giá cả lại hoàn toàn khác nhau, cũng có những nơi lại cung cấp những chiếc ấm không đúng chất lượng như quảng cáo.
Sử dụng và dưỡng ấm tử sa
Mỗi ấm tử sa thường được sử dụng để pha một loại trà. Vì vậy, khi mua ấm về và trước khi sử dụng thường được khai ấm bằng cách cho vào nồi nước sôi đun lên, sau đó cho trà mà bạn muốn sử dụng vào và đun sôi khoảng 15 phút là được. Trong quá trình sử dụng ấm tử sa, việc dưỡng ấm hằng ngày là điều rất quan trọng, nó giúp cho ấm trở lên sáng bóng và đẹp hơn. Sau một thời gian bạn dưỡng ấm liên tục. Những chiếc ấm trải qua thời gian dài sử dụng và bảo dưỡng sẽ trở nên sáng ngời, màu sắc ôn nhuộn, tươi mới…Nói chung, giá trị của nó chỉ có tăng chứ không giảm. Chỉ cần đun sôi ấm như thế trong một nồi trà lớn, để ấm có thể hấp thu chất trà vào các lỗ thông khí kép (khí khổng), loại bỏ mùi của đất là được.
Uống trà bằng ấm Tử sa, tốt nhất mỗi loại trà nên dùng một ấm riêng, để giữ hương vị đặc trưng. Ngay cả khi dùng trà để tôi ấm, nấu ấm mới, cũng nên dùng đúng loại trà ấy. Mỗi buổi sáng, khi rửa bộ đồ trà, bằng cách dùng xác trà cũ trong ấm chà xát lên toàn thân ấm, có thể làm sạch các vết dơ mà không gây trầy xước. Đối với những chiếc ấm cũ bề mặt bị hư tổn, nứt rạn nhẹ, dùng phương pháp “nước trà dưỡng ấm” có thể khôi phục, những vết nứt rạn sẽ dần dần khít lại, đúng là “tôn cổ xuất tân”. Chọn trà cho ấm, chọn ấm cho trà. Dùng ấm để cất giữ hương vị trà, dùng trà để bảo dưỡng ấm, đã trở thành chân lý của một thú chơi thi vị.
Nguồn gốc của ấm tử sa Nghi Hưng
Khởi nguồn ấm tử sa là do Phạm Lãi, người đầu tiên tìm ra chất đất sét vùng Thái Hồ. Sau khi phá xong quân Ngô, ông về ẩn cư nơi đây, lấy việc nặn đồ gốm làm trò tiêu khiển. Thế nhưng thời đó chưa làm ấm trà.
Cứ theo những di chỉ khai quật được thì ngay từ đời Tống (920-1279) người ta đã làm ấm trà ở đất Nghi Hưng. Thế nhưng phải đến thế kỷ thứ 16, đời Minh thì những kiểu ấm nhỏ mới ra đời. Một điều lạ là không phải người Tàu nghĩ ra kiểu ấm chén mà chính là họ du nhập từ Âu Châu. Ngày xưa họ chỉ uống trà bột, quấy trong nước.
Theo sách Dương Tiện Mính Hồ Lục (Sách về các ấm trà vùng Dương Tiện) của Chu Cao Khởi thì đời Chính Đức, Gia Tĩnh nhà Minh có Cung Xuân tài nghệ tuyệt vời, là người nổi danh đầu tiên về làm ấm tử sa. Cung Xuân vốn là gia đồng của Ngô Sĩ đất Nghi Hưng thường theo hầu Ngô Sĩ đến học tại chùa Kim Sa. Trong chùa có một vị hòa thượng có tài làm đồ sứ nên Cung Xuân theo nhà sư học nghề nặn ra những tác phẩm trông chẳng khác gì đồ kim loại xưa. Khi Cung Xuân nổi danh, ông thường cùng Bộc Trọng Khiêm (đất Gia Định) khắc trúc, Lục Tử Đồng (đất Tô Châu) chạm ngọc, và Khương Thiên Lý khảm xà cừ. Tất cả đều là những người nổi tiếng đời Minh. Cung Xuân nặn ấm không lâu — truyện kể rằng ông bị quan sở tại vì yêu chuộng tài nghệ ông nên bức bách khiến ông phải bỏ xứ mà đi — nên tác phẩm của ông hiện nay lưu truyền rất ít. Sách vở chỉ còn ghi một chiếc ấm của ông hình 6 múi hiện tàng trữ tại Viện Trà Cụ Hongkong nặn năm Chính Đức thứ 8 (1513). Thế nhưng còn một cái ấm khác cũng của Cung Xuân để tại Singapore thì ít thấy sách vở nào đề cập. Theo bài “Nghi Hưng và Nghiên Mực” (Yi Hsing and Inkstones) trong tạp chí Arts of Asia, số July/August 1971 thì ông C.M. Wong, Bí Thư của Phòng Thương Mại Singapore và là Chủ Tịch Hiệp Hội Hoa Nhân tại đây có trong bộ sưu tập của ông một ấm Cung Xuân hình vỏ cây. Ấm này đề năm 1506, có triện của người nghệ sư. Phần dưới quai cầm lại còn một vết dấu tay điểm vào mà người ta bảo rằng đó là vết ngón tay thứ sáu của Cung Xuân (bàn tay phải của ông có sáu ngón).
Sau thời Cung Xuân, nghệ thuật làm ấm đất nung vùng Nghi Hưng thịnh đạt, đến đời Vạn Lịch càng có nhiều danh thủ. Lý Ngư viết là: “Trà không gì bằng dùng ấm bằng tử sa, mà vùng Dương Tiện là hạng nhất”. Từ đời Minh trở đi, việc dùng ấm tử sa để uống trà trở nên thông dụng. Người ta để ý đến phẩm chất trà đã đành mà còn kén chọn cả cách pha trà, nước nào pha trà ngon, uống lúc nào mới hợp.
Khi ấm tử sa xuất hiện nó đã dần được mọi người ưa chuộng, vì có nhiều ưu điểm nổi bật. Và ấm sứ dần dần bị lãng quên.
7 ưu điểm nổi trội của ấm tử sa
- Chế nước sôi vào không làm trà mất hương vị, sắc hương còn nguyên
- Bình trà dùng lâu, chế nước không cũng ra mùi trà
- Trà vị không bị biến chất
- Chịu nóng cao, mùa đông tháng giá đổ nước sôi vào không bị nứt
- Ít truyền nhiệt, cầm vào không phỏng tay
- Dùng càng lâu càng lên nước, bóng lộn
- Có nhiều màu khác nhau, dễ lựa chọn
Vì ấm tử sa là một tác phẩm nghệ thuật nên trông ấm người ta có thể đánh giá được người nặn vào bậc nào. Thành ra, trong những nghệ nhân nghề sành sứ, thì ngành làm ấm để tên lại nhiều nhất. Sau đời Cung Xuân người ta thấy có Thời Bằng, Đổng Hàn, Triệu Lương, Nguyên Sướng và Lý Mậu Lâm là những thợ nổi danh.
Đời Vạn Lịch, Thời Đại Bân, con của Thời Bằng là người nổi tiếng hơn cả. Văn Chấn Hanh viết trong “Trường Vật Chí” là “ấm trà tử sa là loại tốt nhất, nắp vừa vặn không làm mất hương, lại không bốc hơi. Ấm do Cung Xuân chế tạo quí nhất, đều nhỏ nhắn, hình dáng lạ lùng. Thời Đại Bân chế thì có cái to, cái nhỏ …”. Cùng nổi danh với Đại Bân có Lý (Đại) Trọng Phương, Từ (Đại) Hữu Tuyền, người ta gọi là Tam Đại.
Từ Hữu Tuyền tự Sĩ Hoành, là học trò của Thời Đại Bân, có tài bắt chước các loại đồng khí xưa làm ấm hình tàu lá chuối, đài sen, củ ấu, quả trứng …
Nổi tiếng thời Vạn Lịch còn có Âu Chính Xuân, Thiệu Văn Kim, Thiệu Văn Ngân, Tưởng Bá Cung, Trần Dụng Khanh, Trần Tín Khanh, Mân Lỗ Sinh, Trần Quang Phủ, Thiệu Cái, Thiệu Nhị Tôn, Chu Hậu Khê …
Thời Vạn Lịch, ngoài việc nặn ấm, các nghệ nhân còn dùng đất tử sa điêu khắc và các chế tạo vật phẩm khác, rất thịnh hành. Người nổi tiếng nhất là Trần Trọng Mỹ ở Vụ Nguyên, An Huy. Họ Trần trước vốn ở Cảnh Đức Trần làm đồ sứ. Sau đến Nghi Hưng kết hợp nghệ thuật đồ gốm với nặn ấm, tạo ra các loại đỉnh hương, bình hoa, cục chặn giấy… rất xinh xắn. Người nổi danh đồng với Trần Trọng Mỹ thì có Trẩm Quân Dụng, tự Sĩ Lương.
Sau đời Vạn Lịch có Trần Tuấn Khanh, Chu Quiù Sơn, Trần Hòa Chi, Trần Đình Sinh, Thừa Vân Tòng, Trẩm Quân Thịnh, Trần Chấn, Từ Lệnh Âm, Hạng Bất Tổn, Trẩm Tử Triệt, Trần Tử Huề, Từ Thứ Kinh, Huệ Mạnh Thần, Tiết Hiên, Trịnh Tử Hầu …
Trên đây là những nghệ nhân nổi tiếng khéo đời Minh. Về sau, người ta mô phỏng rất nhiều những kiểu họ đã chế tạo nên những ấm nào thực sự đời Minh, cái nào đời sau khó ai biết được. Đồ tử sa lại không đề niên đại như đồ gốm nên càng khó phân biệt chân giả.
Sang đến đời Thanh, nghệ thuật làm ấm còn thịnh đạt hơn nữa. Triều đình nhà Thanh chuộng đồ tử sa nên càng coi trọng. Văn khố nhà Thanh còn ghi lượng hàng mỗi năm tiến cống vào cung. Phẩm chất cũng thêm tinh vi, xảo diệu. Ngoài ấm đất, ngưòi ta còn nặn bồn trồng cây cảnh, bình hoa, và dụng cụ dùng trong nhà. Màu sắc pha chế cũng phong phú hơn.
Nghệ nhân nổi tiếng đời Thanh rất nhiều. Người xuất sắc nhất là Trần Minh Viễn, hiệu Hạc Phong, lại có tên là Hồ Aån, chế ra hàng chục thứ ấm trà, đồ dùng khác nhau, không cái nào giống cái nào, quả là bậc thầy trong nghề. Những tác phẩm mà Trần Minh Viễn còn để lại hết sức tinh xảo, lại đầy sáng tạo. Cái thì hình một gốc mai già, cái thì hình bó củi, trông như một nghệ phẩm điêu khắc tả chân hơn là một trà cụ. Ông còn nặn những trái cây tầm thường như hạt dẻ, củ đậu phộng … trông hết sức tinh xảo, thoạt trông không ai bảo là một vật bằng sành.
Sách Trùng San Kinh Khê Huyện Chí, viết năm thứ hai đời Gia Khánh, (Thanh) dùng bốn chữ “vạn gia yên hỏa” (nhà nhà đều khói lửa) để chỉ khung cảnh sinh hoạt bấy giờ. Đời Ung Chính, Càn Long thì có Trần Hán Văn, Dương Quí Sơ, Trương Hoài Nhân. Chế tạo đồ dùng trong cung vua thì có Vương Nam Lâm, Dương Kế Nguyên, Dương Hữu Lan, Thiệu Cơ Tổ, Thiệu Đức Hinh, Thiệu Ngọc Đình nhưng thiên về ấm có trang trí, màu sắc. Những chuyên gia cho rằng kết hợp hai kỹ thuật của Cảnh Đức Trấn (nơi chế tạo đồ sứ tráng men) với Nghi Hưng đã làm giảm đi phong vị của ấm tử sa, bản chất vốn giản phác, gần thiên nhiên. Cầu kỳ hóa một nghệ thuật vốn dĩ đạm bạc đã khiến cho nghệ thuật nặn ấm đổi hẳn sắc thái, mất đi tính nguyên ủy của nó.
Sang đời Gia Khánh, những người tên tuổi có Huệ Dật Công, Phạm Chương Ân, Phan Đại Hòa, Cát Tử Hậu, Ngô Nguyệt Đình, Hoa Phượng Tường, Trinh Tường, Quân Đức, Ngô A Côn, Hứa Long Văn …
Thời Đạo Quang có Dương Bành Niên và em gái là Dương Phượng Niên cùng với Trần Hồng Thọ, Thiệu Đại Hanh là những danh gia. Trần Hồng Thọ hiệu là Mạn Sinh, đời Gia Khánh làm huyện tể đất Lật Dương. Ông là người giỏi viết chữ, vẽ tranh, khắc triện lại thích sưu tầm ấm tử sa. Nhiều ấm do Dương Bành Niên và nhà họ Dương chế tạo ra, đợi cho hơi khô, Trần Hồng Thọ dùng dao tre khắc, vẽ, viết chữ, đề thơ lên rồi mới đem nung. Việc kết hợp hai tài danh, một nặn ấm, một thư họa là sáng tác mới của thời đó. Ấm thường có đề “A Mạn Đà Thất” (là tên thư trai của họ Trần) hay dưới đáy có khắc “Bành Niên”. Đời sau gọi là ấm Mạn Sinh (Mạn Sinh hồ).
Theo chân Trần Hồng Thọ, nhiều danh sĩ khác như Kiều Trọng Hỉ, Ngô Đại Trừng cũng đứng ra chỉ đạo việc nặn ấm. Từ đó, một kỹ xảo vốn chỉ được coi như nghề mọn nay đã lan sang cả giới nho gia. Tuy không được phổ biến như thư họa nhưng cũng không còn là một tiện nghệ như trước nữa.
Một danh sĩ vốn giỏi về vẽ trúc là Cù Tử Trị lại đem việc khắc trúc, họa trúc vào trang trí trên ấm. Họ Cù không những mang thư pháp mà còn khắc hẳn những cành trúc, cành mai nghĩa là coi chiếc ấm như một tờ giấy hay vuông vải để thi thố tài hàn mặc.
Còn Thiệu Đại Hanh thì là một nghệ nhân nổi tiếng không kém gì Dương Bành Niên. Trong khi Dương nổi danh về tinh xảo thì Thiệu có tiếng về giản phác. Ông không cầu kỳ nhưng cũng có nhiều sáng kiến độc đáo. Chính kiểu nắp ấm đầu rồng, khi rót thì lè lưỡi ra là do ông khởi thủy, tới nay vẫn còn nhiều người bắt chước và khá phổ biến trên thị trường.
Cuối đời Thanh, Chu Kiên lại có sáng kiến dùng thiếc và ngọc để bịt hay khảm vào ấm tử sa. Nhiều thân ấm được bịt thiếc và viết chữ rồi dùng ngọc trạm thành quai, thành vòi ráp vào. Thế kỷ thứ 19 nhiều người còn bịt đồng hay thau nhưng nói chung những kiểu này không được chuộng lắm.
Vào thời điểm này, việc thương mại giữa Trung Hoa và nước ngoài đã phát triển. Nhiều cường quốc đã chiếm những lãnh địa ở duyên hải hay cưỡng ép nhà Thanh nhường làm tô giới và Thanh đình đã phải mở cửa cho họ vào buôn bán. Trà Tàu trở thành một nông phẩm xuất cảng quan trọng và ấm Tàu cũng được sản xuất qui mô để bán ra ngoài. Nhiều công ty thành lập tại Thượng Hải, Nghi Hưng, Thiên Tân, Hàng Châu đại lý bán ấm Nghi Hưng. Những kiểu ấm thời đó cũng vẫn theo mô dạng cũ. Một công ty ở Thượng Hải là Thiết Họa Hiên đến nay vẫn còn. Thiết Họa Hiên nổi tiếng vì chữ viết trên ấm rất đẹp. Những nghệ nhân nổi tiếng của họ gồm có Tưởng Yến Hanh, Trần Quang Minh, Phạm Đại Sinh, Vương Diễn Xuân, Trình Thọ Trân. Những ấm xuất cảng thường có cả con dấu của nghệ nhân lẫn con dấu của hãng. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có hai hãng khác là Chân Ký và Ngô Đức Thịnh cũng phát đạt.
Thời Dân Quốc ấm Nghi Hưng được xuất cảng rất nhiều sang Nhật Bản, Đông Nam Á, Âu Châu và Mỹ Châu. Thời đó cũng có nhiều thợ khéo nhưng kiểu thường giản dị, cân đối chứ không cầu kỳ như thời trước. Có lẽ vì nhu cầu thương mại và thị hiếu đã thay đổi. Đến thời loạn lạc thập niên 1930, 1940 việc sản xuất ấm phải đình trệ. Sau khi Trung Cộng nắm quyền, việc sản xuất được qui tụ thành công xã nhưng không phát triển được. Thời Cách Mạng Văn Hóa lại một lần nữa kỹ nghệ này bị vùi dập. Trong chế độ Cộng Sản, uống trà bị coi là một tàn tích tư sản, bóc lột, phi sản xuất nên bị bài xích. Việc làm ấm vì thế cũng bị triệt hạ. Sau khi Đặng Tiểu Bình thi hành chính sách cải tổ, Trung Cộng phục hồi ngành nặn ấm tử sa. Năm 1979, xí nghiệp Nghi Hưng Tử Sa đã sử dụng đến 600 nhân công. Hiện nay, một số thợ chuyên môn trẻ và tương đối có trình độ đã khôi phục lại được công nghiệp này, nhất là càng ngày càng có nhiều người ưa chuộng và sưu tập.
Đến thời điểm hiện nay, các nghệ nhân Tử sa đương đại thuộc hàng “cao thủ” ở Nghi Hưng có 8 vị: Cố Cảnh Chu, Tưởng Dung, Bùi Thạch Dân, Chu Khả Tâm, Ngô Vân Căn, Uông Dần Xuân, Nhậm Cán Đình và Đàm Tuyền Hải. Các nghệ nhân này hầu hết đang giữ những chức vụ quan trọng trong ngành mỹ thuật tỉnh Giang Tô. “Danh sư xuất cao đồ”, học trò và con cái của họ cũng là những nghệ nhân kiệt xuất trong nghề: Từ Hán Đường, Từ Tú Đường, Lý Xương Hồng, Thẩm Cừ Hoa (nữ), Lý Bích Phương (nữ), Uông Dần Tiên (nữ), Lữ Hiểu Thần, Ngô Chấn, Bào Chí Cường, Trữ Lập Chi, Cố Thiệu Bồi, Hà Đạo Hồng… Thành phố Nghi Hưng hiện có tới 20 công ty, nhà máy chuyên sản xuất mặt hàng gốm Tử sa, mỗi ngày có 20 ngàn nghệ nhân, công nhân đến xưởng làm việc.
Nói đến ấm trà không thể không nhắc đến ấm sản xuất tại Đài Loan. Từ khi chính quyền dân quốc thiên di sang hòn đảo này, nhiều người trong số di dân là nhà sưu tập hoặc dân bản xứ vùng Giang Tô. Nghề làm ấm cũng được truyền theo. Ấm Đài Loan cũng đẹp không kém gì ấm sản xuất tại lục địa. Về phương diện tinh xảo và cầu kỳ có phần hơn. Tuy nhiên giá cả thường đắt một chút.
Hongkong và Singapore cũng là nơi có nhiều danh thủ trong cả sưu tập lẫn chế tạo ấm. Viện Bảo Tàng Trà Khí Hongkong (Flaggstaff House Museum of Tea Ware) được chính thức mở cửa từ ngày 27 tháng giêng năm 1984 trong đó Tiến sĩ K.S. Lo cống hiến hơn 600 món, từ trà cụ thời Tây Chu (thế kỷ 11 trước TC) đến tận gần đây. Chính Viện Bảo tàng này đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm, trình diễn phương thức uống trà, và thi nặn ấm (ba lần 1986, 1989 và 1992) đã được rất nhiều người hâm mộ và tham dự. Sáng tác mới của nghệ nhân đời nay thật phong phú, phối hợp được quan điểm Đông và Tây thoát hẳn những mô dạng của đời trước.
Phong khí uống trà hiện nay cũng trở thành một phong trào, tuy không rầm rộ như những thưởng thức khác nhưng cũng rất đáng kể. Nhiều trà thất, hiệp hội, trung tâm, tổ chức và nhóm nghiên cứu được thành lập khắp nơi trên thế giới (kể cả tại Mỹ) nhất là tại những nơi có nhiều Hoa Kiều. Tại Hoa lục (Bắc Kinh, Hàng Châu, Quảng Châu) và Đài Loan, Hongkong, Singapore lại càng phát triển. Lại có những tạp chí bằng Anh, Pháp, Hoa ngữ chuyên cho những người thích trà ngon và chuộng việc sưu tập ấm tử sa.
Một điểm đáng lưu ý là hiện nay các dáng ấm tử sa đã trở lên rất đa dạng với nhiều mẫu mã, kiểu dáng rất đẹp. Trước đây người nghệ nhân vẫn coi ấm là chính, chứ hình dáng thay đổi chỉ cốt để chứng tỏ cái xảo diệu kết hợp mô thức thiên nhiên với công dụng của trà cụ. Hiện nay, nhiều kiểu ấm tử sa đã gần như thoát hẳn cái công dụng pha trà. Có cái hình xe cút kít, chiếc ghế mây, cái giếng, cái rương, đồng tiền… Tuy lạ mắt nhưng không tiện. Nhà Thiên Nhân thì họa nhiều kiểu có hình dáng như những tác phẩm điêu khắc mới, trông cũng hay và tân kỳ. Nhiều nghệ nhân cũng nặn tượng, tuy tinh xảo nhưng gần như không liên quan gì đến những đặc tính độc đáo của đất tử sa.
Tại nước ta cũng có rất nhiều nơi sản xuất đồ gốm, nhưng thường là bắt chước theo các mẫu mã, kiểu dáng của Trung Quốc. Kể cả những chiếc ấm tử sa Bát Tràng, mẫu mã, hoa văn đều được dựa theo những chiếc ấm tử sa của Trung Quốc. Nhưng những chiếc ấm được gọi là ấm tử sa của bát tràng đó không được làm từ loại đất tử sa chính thống. Và những ấm trà được chế tác theo kiểu Nghi Hưng nhưng chưa tinh xảo. Nếu thực sự muốn chiếm một chỗ đứng trên thị trường, chúng ta còn phải đầu tư và học hỏi nhiều.
Xem bài gốc tại Trà Cụ